Sự-tích của Dự-Án Thủy-Điện Danhim
Ngày 9 tháng 11 năm 2004 tôi được tham-quan các công-trình của
hệ-thống Thủy-Điện Danhim tại Dran và Đồng Bằng Phan-Rang.
Xưa kia, vào những năm 1956-1961, tôi hân-hạnh được giao-phó
trách-nhiệm thương-thuyết với các sở-quan của nhà nước Nhựt-Bổn về
việc sử-dụng phương-tiện Bồi-Thường Chiến-Tranh của Nhựt-Bổn cho
Việt-Nam để đầu-tư vào Dự-án Thủy-Điện Danhim. Tôi cùng với nhiều
chuyên-viên Việt Nam khác, đã cộng-tác với Công-Ty tư-vấn kỹ-thuật
Nippon Koei và nhà thầu Nhựt-Bổn để nghiên-cứu và thực-hiện dự-án.
Tôi rất cảm động hôm nay khi nhận thấy trên một bia đá tại Nhà Máy
Thủy-Điện Phan-Rang còn ghi tên của 2 kỹ-sư trẻ tuổi Việt Nam:
-
Ông Trần-Ngọc-Oành, Kỹ-Sư Cầu-Đường, được tôi giao-phó trách-nhiệm
điều-khiển công-trường xây dựng Đập Đất và các công-trình
phụ-thuộc tại Dran. Ông Trần-Ngọc-Oành, không may bị tử-nạn sau
năm 1975 tại Thái-Lan;
-
Ông Dương-Kích-Nhưỡng, Kỹ-Sư Điện-Lực, được tôi giao-phó
trách-nhiệm điều-khiển công-trường xây cất Nhà Máy Phát-Điện tại
chân núi Phan-Rang. Ông Dương-Kích-Nhưởng hôm nay sinh-sống tại
Mỹ.
Riêng tôi, năm 1964 tôi đã từ-giã Việt Nam để đi làm việc nước
ngoài. Như vậy, sau hơn 50 chục năm, tôi mới được cơ-hội thấy
dự-án Danhim ngày nay hoàn-thành và hoạt-động một cách hữu-hiệu.
Dự-án Danhim thật sự đã xây cất xong vào cuối năm 1964. Nhưng vùng
Saigon, mục-tiêu chánh-yếu cho việc tiêu-thụ điện-lực của dự-án,
lúc bấy giờ chưa nhận được một Kilowatt điện-lực nào cả vì đường
giây cao-thế chuyển điện từ Nhà Máy Phát-Điện về tới Saigon, trên
hơn 300 km đường băng rừng, liên-tục bị gián-đoạn vì chiến-tranh.
Chỉ sau năm 1975 khi chiến-tranh chấm dứt sau nhiều năm gian-truân
và thử-thách, dự-án Thủy-Điện Danhim mới được trùng-tu và khởi sự
hoạt động để cung-cấp điện-lực cho vùng Sài Gòn.
Đợt kế-tiếp của Dự-Án Danhim
Mục-đích của bài-viết nầy là để trình bày một cách sơ-lược dự-án
phát-triển kế-tiếp cho Dự-Án Danhim, một giai-đoạn đã được hoạch
định từ lúc ban đầu, nhưng tới nay chưa được thi-hành. Những
đề-nghị sau đây, lẽ cố-nhiên còn phải đặt dưới sự dè-dặt thường
lệ, vì tôi chưa hân-hạnh được cập nhựt am-hiểu kế-hoạch của Nhà
nước Việt Nam về vấn-đề phát-triển Đồng bằng Phan-Rang (sau đây
xin gọi tắt là ĐBPR).
Dự-Án Thủy-Điện Danhim thật-sự chỉ là Đợt 1 của một chương-trình
phát triển qui-mô hơn nữa. Đợt kế-tiếp là sử-dụng khối lượng nước
thải rất đáng kể mà ngày nay chúng ta có được sau Nhà Máy Phát
Điện tại một điạ-điểm cao-độ thuận-lợi tại vùng thượng-lưu ĐBPR.
Khối lượng nước bổ-túc nầy có thể dùng phát triển một dự-án
dẫn-thửy nhập-điền, để canh-tác và sản-xuất nhiều hoa-màu lựa chọn
có giá trị cao.
ĐBPR là điạ bàn Việt Nam bị thiệt-thòi về mặt thời-tiết vì khô-hạn
hơn hết. Mỗi năm chỉ hưởng được không đầy 1000 cm nước mưa, trong
khi miền Nam và Đồng Bằng Sông Cửu-Long hưởng hơn 2500 cm, và các
đồng bằng miền Trung, như Huế chẵng hạn, hưởng tới hơn 3200 cm
nước mưa. Vậy, việc có thêm được một khối lượng nước bổ-túc tại
ĐBPR do Dự-Án Thủy-Điện Danhim đem lại, là một tài-nguyên vô giá,
không nên bỏ lỡ.
Hơn nữa, khối nước bổ-túc nầy là một khối nước điều-hoà quanh năm,
chúng ta có thể tùy-nghi chủ-động, muốn xuất-phát hoặc kiềm-chế
khối-lượng nhiều hay ít lúc nào cũng được. Không phải lệ thuộc vào
nước mưa và thời-tiết. Chương trình sử-dụng nước có thể
uyển-chuyển quanh năm rất tiện lợi, tùy theo nhu cầu canh tác để
sản xuất các hoa-màu lựa-chọn có giá trị cao.
Những giai-đoạn nghiên-cứu cần thực-hiện.
Trước khi thực hiện dự-án dẫn-thủy nhập-điền ĐBPR, chúng ta trước
tiên phải thực hiện một cuộc nghiên-cứu khả-thi cho dự-án (project
feasibility study), do một hảng tư-vấn đáng tin cậy, có đầy đủ
khả-năng và kinh-nghiệm.
Trách nhiệm đầu tiên nầy, lẽ cố-nhiên là của Nhà nước Việt Nam.
Trước tiên, cần triệu-tập một nhóm chuyên viên nông-nghiệp để thảo
một Điều-Kiện Sách (Terms of reference) cho cuộc nghiên-cứu
khả-thi. Với sự dè-dặt cần rà-soát lại và bổ-sung thêm, tôi
thiết-tưởng bản Điều-Kiện-Sách Nghiên-Cứu Khả-Thi phải gồm ít nhứt
các dịch-vụ chánh yếu cần-thiết sau đây:
1/- Soạn-thảo một bản đồ điạ-thế (topographic map) của ĐBPR với
một tỷ-lệ (scale) thích-nghi và đầy đủ các đường cao-độ (level
lines) cần-thiết cho cuộc nghiên-cứu dẫn thủy nhập điền. Nguồn gốc
của những tài-liệu bản đồ nầy có thể, phần nào, sưu-tầm tại các
văn-khố thời Pháp thuộc. Nếu không, phải thực-hiện một nghiên-cứu
địa-thế bổ-túc trên căn-bản hình chụp máy bay của ĐBPR.
2/- Chọn lựa các điạ-phận của ĐBPR có thể dẫn-thủy để
canh-tác, hoặc theo áp-lực thiên-nhiên (gravity), hoặc bằng bơm
điện (electricity pumping), thừa dịp điện-lực có sẵn với giá rẻ
tại Nhà Máy Phát-Điện tại chân núi Phan-Rang.
3/- Thi-hành một cuộc nghiên cứu điạ-chất thổ-nhưỡng
(pedologic study) của các địa phận ĐBPR được chọn-lựa.
4/- Lựa chọn các loại hoa-màu có giá trị cao, tùy theo
thị trường tại Việt-Nam và quốc-tế, có thể phát triển canh-tác
theo điạ-chất thổ-nhưỡng tại các địa-phương của ĐBPR, theo
thời-tiết và nhu-cầu khối lượng nước bổ-túc cần-thiết.
5/- Thảo sơ-đồ hạ tầng cơ-sở (layouts) của một
hệ-thống dẫn-thủy thích-nghi, với những bộ-phận điều-hành
cần-thiết để canh-tác.
6/- Ước tính chi-phí đầu-tư để xây dựng hạ-tầng cơ-sở
dẫn-thủy nói trên.
7/- Đề-nghị một tổ-chức hiệp-hội nông-dân để điều-hành
dự-án.
8/- Ước tính thời-gian khai-thác sống-còn tối-đa của dự-án
(project operational life) và các chi-phí điều-hành liên hệ.
9/- Lập bản đối-chiếu so-sánh tất cả các lợi và các
hại của dự-án về mặt xã-hội (project social costs and benefits
analysis) chung cho cộng đồng nhân dân ĐBPR, trong suốt thời-gian
sống còn ước-định cho dự-án.
Dự-thảo Điều-Kiện Sách ghi trên lẽ cố-nhiên còn rất sơ-lược, cần
được rà soát lại do các chuyên-viên nông-nghiệp và dẫn-thủy
nhập-điền. Nhà nước Việt Nam có thể yêu-cầu sự giúp đở của Chương
Trình UNDP (United Nations Development Program) của Liên-Hiệp
Quốc, tại Hà-Nội, để giúp soạn-thảo Dự-Thảo Điều-Kiện-Sách nầy.
Thông thường, UNDP có một số chuyên-viên làm việc tại Việt Nam.
Nếu trong số đó có một chuyên-viên nông-nghiệp, thì việc rà soát
và bổ-sung dư-thảo Điều Kiện Sách sơ-khởi nói trên là một dịch-vụ
của đương sự.
Nếu hiện nay tại Việt Nam không có một chuyên viên nông-nghiệp
thích-nghi, Chính-Phủ Việt Nam có quyền yêu cầu người Đại-Diện của
UNDP tại Hà Nội tuyển-dụng chuyên-viên cần-thiết từ bên ngoài, với
phương-tiện ngân-sách viện trợ kỹ-thuật của Liên-Hiệp-Quốc dành
cho Việt-Nam (UNDP Country Program), để kiểm soát và bổ sung bản
Điều-kiện Sách nói trên, trước khi thuê một hãng kỹ-thuật tư-vấn
để thực-hiện cuộc nghiên-cứu khả-thi.
Giai-đoạn đầu-tư để thực-hiện dự-án.
Hoàn tất cuộc nghiên-cứu khả thi nói trên là bước đầu-tiên bắt
buộc, trước khi đề-cập tới vấn-đề tìm tài-nguyên để thực hiện
dự-án. Nghiên cứu khả thi, thật sự là một bước đầu-tư rồi.
Chi-phí cần thiết cho cuộc nghiên-cứu khả thi, theo dự-thảo Điều
Kiện Sách nói trên, không chừng sẽ tốn kém vào khoảng 1 triệu USD.
Tôi thiết tưởng cơ-quan UNDP của Liên-Hiệp-Quốc, ngoài sự giúp đỡ
để soạn-thảo bản Điều-Kiện-Sách như nói trên, thông-thường không
có đủ ngân-sách để giúp thực hiện toàn-thể một dự-án nghiên cứu
khả-thi khá quan-trọng như vậy.
Bước đầu-tư ban đầu nầy, có lẽ phải do ngân-sách của nhà nước Việt
Nam đài-thọ, mục-đích để lấy kết-quả nghiên-cứu dùng làm căn-bản
thương-lượng và truy-tầm những nguồn tài-nguyên kế-tiếp đầu-tư vào
dự-án.
Những nguồn tài-nguyên để tiếp-tục đầu-tư vào dự-án có thể là
Ngân-Hàng Thế-Giới (World Bank), Ngân-Hàng Phát-triển Á-Đông
(Asian Development Bank), và các nước bạn thân-hữu với Việt-Nam.
Nhựt-Bổn là nước có thể có nhiều cảm tình với dự-án, vì xưa kia đã
tham gia giúp đỡ Việt-Nam thực-hiện đợt đầu tiên, Dự-Án Thủy-Điện
Danhim.
Vì dự-án đầu-tư phát-triển ĐBPR có một tác-dụng đáng-kể, trực-tiếp
gia-tăng lợi-tức cho nhân-dân tại ĐBPR, một vùng rộng lớn, tôi
thiết-tưởng sẽ hấp-dẫn đối với các nguồn viện trợ quốc-tế và
quốc-gia nói trên. Vậy việc truy-tầm tài-nguyên để thực-thi dự-án,
tương-đối có lẽ sẽ không khó-khăn cho lắm.
Tuy nhiên, muốn đi tới mục-đích đó, Nhà nưóc Việt Nam trước-tiên
phải chịu xuất ra đài-thọ cuộc nghiên-cứu khả-thi của dự-án, để
lấy đó làm căn-bản quảng-cáo và tìm tài-nguyên đầu-tư, theo đường
lối thông-thường của một dự-án phát triển kinh-tế quan-trọng.
Làm tại Việt Nam, ngày 24-3-2007.
Trần-Lê-Quang