Staline, xa hoàng đỏ

Đúng theo thủ tục
cộng sản độc tài đảng trị và học đòi phong cách Lê Nin, xác của
Staline cũng được đưa đi ướp để trưng bày cho hậu thế chiêm
ngưỡng, và có đối tượng để thần thánh hóa những chuyện làm về
sau. Ngày 9 tháng Ba, năm 1953 - bốn ngày sau khi chết –
Molotov, Beria và Khrouchtchev mỗi người đọc một bài ai điếu,
rồi đưa xác Staline vào lăng tẩm, bên cạnh nhục thể của Lê Nin.
Ngay hôm sau lễ tang, Beria mời Molotov - Chủ Tịch Hội Đồng Ủy
Viên Nhơn Dân kiêm Ngoại Trưởng - đến trụ sở mật vụ Loubianka,
nơi bà vợ của ông còn bị giam giữ. Bà Polina Molotova, cũng là
Bộ Trưởng, nhưng vì gốc Do Thái của bà nên bị Staline nghi ngờ
là phản bội Liên Xô, bị bắt hồi tháng Mười Hai năm 1948 và đưa
đi trại cải tạo lao động. Khi Staline vừa trút hơi thở cuối
cùng, Beria ra lịnh ngưng điều tra bà và quyết định phóng thích.
Khi Molotov đến nơi, Beria vội vàng thả ngay bà Polina, với lời
khen ngợi: "Một nữ anh hùng!" Chưa hay biết gì bên ngoài, bà
Polina hỏi thăm ngay Staline. Khi được biết Staline đã qua đời,
bà choáng váng. Như vậy là Molotov đưa bà về nhà. Hiện tượng đó
cho thấy bà Polina không biết Staline cho lịnh bắt bà nên vẫn
còn cảm tình với Staline.
Tưởng chừng như cờ đã tới tay, Beria bắt đầu khai phóng chế độ,
phủi sạch ảnh hưởng chẳng mấy tốt đẹp của Staline. Trước hơn
hết, ông cho lịnh bắt những người dựng đứng cái gọi là "Âm mưu
của các thày thuốc". Chế độ Staline cho là những bác sĩ - phần
đông người Do Thái – âm mưu giết chết những nhà lãnh đạo xô viết
nên ra lịnh bắt giam hết những người mặt "áo choàng trắng". Thế
nhưng, khi Beria đề nghị giải phóng Đông Đức thì một cuộc nổi
dậy manh nha, làm cho những người quyền chức khác lo ngại.
Như vậy là, Khrouchtchev nghĩ cách loại trừ Beria và tìm cách
thuyết phục Malenkov, Thủ Tướng chánh phủ, và Boulganine, Bộ
Trưởng Quốc Phòng. Molotov thường khâm phục Beria, nhưng cuộc
khủng hoảng liên hệ đến nước Đức thúc đẩy Molotov ủng hộ
Khrouchtchev. Thống chế Vorochilov, Bộ Trưởng Chiến Tranh cũng
ủng hộ Khrouchtchev.
Ngày 25 tháng Sáu, Beria đang vui thú cùng với gia đình thì được
mời dự phiên bất thường của Tối Cao Xô Viết. Cảm thấy có điều
bất thường, vợ ông khuyên nên thận trọng. Nhưng Beria cứ vững
tin và giải thích rằng chẳng có gì phải lo vì đã có hậu thuẫn
của Molotov.
Ngày hôm sau, khi phiên họp bắt đầu, vào khoảng một giờ trưa,
Khrouchtchev đứng lên mở lời và tấn công Beria. Boulganine cũng
đứng về phe Nikita Khrouchtchev và Mikoïan bất ngờ được tin là
Beria sẽ bị bắt. Ngạc nhiên, Beria hỏi: "Chuyện gì vậy Nikita?
Tại sao đồng chí lại kiếm chuyện với tôi?" Khrouchtchev không
cần trả lời, Malenkov lại đứng lên chỉ trích Beria và ra hiệu
ngay cho các tướng lãnh đứng bên ngoài thi hành phận sự. Thống
chế Joukov tiến ngay vào phòng họp bắt Beria.
Vợ, con và dâu của Beria cũng đều bị giam giữ. Từ ngục thất,
Beria dồn dập viết thơ cho Malenkov yêu cầu giúp đỡ và xin tha
tội cho vợ, con trai và dâu. Ngày 22 tháng Mười Hai năm 1953,
Beria bị một tòa án mật kín xử tử về tội phản bội và khủng bố
cùng với Merkoulov, Dekanozov và Koboulov, những tội ác dường
như được gán ghép cho họ.
Người ta lột hết
quần áo của Beria, ngoại trừ đồ lót. Hai tay bị còng và treo lên
một cái móc trên tường, Beria kêu la và cầu xin được tha tội
chết. Ông la lối quấy rầy đến đổi người ta phải tống một cái
khăn mặt vào miệng. Hai con mắt lồi lên, nổi cộm trên cái băng
vải mà người ta quấn đầu ông. Tên đao phủ của Beria, tướng
Batitski - về sau được thăng cấp thống chế để tưởng thưởng – đưa
súng nhắm ngay đầu và bắn cho một phát chết tốt. Xác bị đem
thiêu.
Khi những nhà lãnh đạo mới, của thời kỳ sau Staline, mở cửa thả
tù, những người bị chế độ cũ giam giữ đều có một thái độ như
nhau là biết ơn Staline. Ngay sau khi được tha, Kira Allilouïeva
– cháu gọi Nadia bằng cô – đi tìm mẹ ở nhà giam Loubianka, bà
này nói với con: "Con thấy chưa, Staline đã cứu chúng ta!" Kira
chận ngay: "Tại sao mẹ lại tin như vậy được? Staline đã chết
rồi." Như vậy mà bà mẹ cứ tiếp tục ngưỡng mộ nhà độc tài cho đến
chết!
Khi triệt hạ được những đồng chí đối thủ, sau cái chết của
Staline, Khrouchtchev trở thành nhà lãnh đạo mới của Liên Xô.
Năm 1956, với hậu thuẩn của Mikoïan, Khrouchtchev đứng ra tố cáo
tội ác của Staline trong bản phúc trình mật nổi tiếng. Năm năm
sau, xác chết của Staline bị đưa ra khỏi lăng và chôn ở chưn
tường Điện Cẩm Linh. Từ đó trở đi, nội tình Bộ Chánh Trị Liên Xô
xáo trộn kinh khủng, các đồng chí lãnh đạo đấu đá nhau tơi bời.
Mạnh được, yếu thua, ai giỏi gian manh thì tồn tại. Qua cơn sóng
gió trong vòng thành Điện Cẩm Linh đó, người đồng chí con nhà
nông ít học kia lại vượt trội được để nắm ngôi bá chủ thế giới
cộng sản.
Khrouchtchev cũng đảm nhiệm những chức năng như Staline là Tổng
Bí Thơ Đảng và Chủ Tịch nhà nước. Thống Chế Joukov nắm lấy Bộ
Quốc Phòng, như là một phần thưởng về cúc cung tận tụy. Thế
nhưng vì Joukov được lòng thiên hạ và hay tranh luận nên
Khrouchtchev coi như một người cạnh tranh đáng gờm, bèn cho đi
nghỉ mát. Năm 1960, khi Vorochilov đến tuổi về hưu thì
Khrouchtchev và Mikoïan là hai nhơn vật thanh thế còn lại của
thời Staline.
Sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, làm cho thế giới cảm thấy bị
một cuộc chiến hạt nhơn đe dọa, cộng với những lệch lạc trong
chánh sách nông nghiệp phi lý, cuối cùng Khrouchtchev cũng mất
hết quyền hành. Năm 1964, Khrouchtchev bị phái trẻ của Staline
như Brejnev, Kossiguine và nhà mưu lược của họ là Souslov, lật
đổ và cai trị đất nước đến ngày tàn của họ, vào những năm 1980.
Các quan chức lớn tuổi hơn cảm thấy khó phục hồi lại sau khi bị
thất bại về chánh trị. Trước tiên, họ thấy nhẹ người là còn sống
sót vì họ nghĩ là lẽ ra phải bị bắt, chẳng hạn như Kaganovitch
và Andreev chẳng còn gì khi rời khỏi nơi ở trong Điện Cẩm Linh
hồi năm 1957. Những người khác, khôn khéo hơn, còn kiếm chác
được đôi chút. Tất cả những nhơn vật tên tuổi một thời, đã từng
làm cho bao người vô tội phải chết oan, sống an nhàn chuỗi ngày
cuối đời của mình bằng cách viết hồi ký. Họ tiếp đón những người
ái mộ Staline và tránh né những cặp mắt thiếu thiện cảm của
những nạn nhơn chế độ Staline khi gặp trên đường phố. Dẫu cho
nay họ chẳng là gì hết, nhưng đôi khi thiên hạ còn nhớ tới họ,
như là hiện thân của một chủng loại gần như tiêu tan.
Molotov và Polina, hai vợ chồng được đoàn tụ hạnh phúc nhờ cái
chết của Staline, nhưng không oán hận gì mà lại cứ ủng hộ
Staline. Molotov và Kaganovitch vẫn tiếp tục khinh ghét nhau, có
lẽ cho đến chết, nhưng cả hai càng khinh rẻ Khrouchtchev nhiều
hơn. Họ cho rằng Khrouchtchev là một con người "hai tay vấy máu
đến tận cùi chỏ" và "tâm hồn trĩu nặng tội phạm" mà lại dám lợi
dụng cái chết của Staline để làm nấc thang danh vọng cho bản
thân. Sau hơn mười năm cầm quyền với chiến dịch "giải trừ
Staline" nổi tiếng và với nhiều lầm lẫn - khủng hoảng tên lửa
Cuba, chiến tranh lạnh với Trung Quốc,... - rồi Khrouchtchev
cũng tàn phai hồi năm 1971.
Tuy nhiên, hậu duệ của những viên chức thời Staline cũng còn
khuynh hướng binh vực chế độ của thời kỳ "Nỗi Khiếp Sợ Vĩ Đại",
và nói chung là muốn xóa đi những tội ác của Staline, và trăm
dâu đổ đầu tầm, chụp chiếc mũ ghê sợ lên đầu Beria. Đối với
Martha Pechkova, dâu của Beria, thì "Staline vừa hung ác vừa
thông minh". Thời bấy giờ, chánh trị là một môi trường khép kín,
trong đó những vai chánh đấu đá nhau cho đến chết. Thật là một
thời dễ sợ!
Vladimir Allilouïev, cháu kêu Nadia bằng dì, mà cha đã bị
Staline ra lịnh xử tử và mẹ - chị ruột Nadia - bị mất trí trong
tù, còn xác nhận Staline là "một vĩ nhơn, có mặt tốt mà cũng có
mặt xấu". Có dư luận còn cho rằng: "Chế độ sai quấy chớ không
phải cá nhơn Staline. Với bịnh Sida, bọn tư bản còn giết dân Nga
nhiều hơn Staline!"
* * *
Thói thường, phủ binh phủ, huyện binh huyện, thì đám cận thần và
con cháu của những quan chức thời Staline nghĩ tốt cho Staline
hay cho đấng sinh thành của mình cũng là đương nhiên. Vì vậy mà
thiên hạ chẳng có gì phải sững sờ, nếu như Poutine tỏ ra có cảm
tình với thời đại Staline. Tìm hiểu tiểu sử của Vladimir
Poutine, người ta thấy rằng từ năm 1985, Poutine đã hoạt động
kín đáo cho KGB, ngụy trang dưới danh nghĩa của "Ngôi Nhà Hữu
Nghị Đức-Xô" tại Dresde (Đức).
Nên chi, Điện Cẩm
Linh, dưới triều đại của Poutine, thường tìm cách ngoái nhìn lại
lịch sử nhiều hơn là lo chuyện cai trị đất nước. Vì mong muốn
phục hồi lại thế đứng của lịch sử Nga nên Poutine và các quan
chức khác đã đẩy mạnh tinh thần dân tộc, thường tôn vinh những
thắng lợi của Liên Xô, trong khi đó coi nhẹ hoặc thậm chí xóa
sạch những việc làm khủng khiếp của chế độ.
Hậu quả là, trên khắp đất nước Nga, nhiều hồ sơ lưu trữ nói đến
những trường hợp giết chóc, ngược đãi và những hành động tương
tự của các nhà cầm quyền Liên Xô càng ngày càng bị cấm khai
thác. Mà trong những chuyện đó vai trò của mật vụ là then chốt
cho nên nhà nước không muốn cho ai biết đến. Có thể vì Poutine
là nhơn viên KGB trước kia - cuối những năm 1990 đã trở thành
FSB - nên ông đã ra lịnh cấm. Trước khi bước vào chính trường,
ông từng có 16 năm phục vụ trong cơ quan tình báo KGB nổi tiếng
của Liên Xô và sau đó làm lãnh đạo FSB, cơ quan an ninh Nga kế
thừa KGB.
Vừa mới đây, với tư cách thủ tướng, ông Vladimir Putin đặt tên
mới cho một ngọn núi thuộc dãy Kavkaz là "Đỉnh núi các điệp viên
phản gián Nga", nhằm tôn vinh công lao của những người làm trong
ngành tình báo mà ông từng xuất thân.
Văn phòng thủ tướng cho biết, ông Putin đã ký vào nghị quyết đặt
tên mới nói trên cho ngọn núi trước đây còn vô danh có độ cao
3.269 mét. Đỉnh núi này nằm trong nước cộng hòa Bắc Ossetia
thuộc Nga giáp biên giới khu vực ly khai Nam Ossetia, trung tâm
của cuộc xung đột giữa Nga và Gruzia hồi tháng 8 vừa qua.
Hồi năm ngoái (2007), Điện Cẩm Linh đưa ra một bản hướng dẫn cho
những nhà giáo cấp trung học, trong đó Staline được mô tả như là
"một trong những lãnh tụ thành công nhứt của Liên Xô", dù vẫn
nêu lên việc ông ta đối xử hung bạo với nhơn dân Nga. Chính
Poutine cũng công nhận những mất mát, thiệt hại và những hành
động gớm ghiết và xấu xa dưới thời Staline, nhưng lại khuyên
người Nga đừng lấy đó làm nhục.
Trong một buổi hội, Poutine có nói: "Chúng ta quả đã có những
giai đoạn đen tối trong lịch sử, như những biến cố từ năm 1937.
Đó là những thời kỳ không nên quên trong quá khứ của chúng ta.
Thế nhưng, những đất nước khác cũng đã trải qua những thời kỳ
đen tối và khủng khiếp của họ. Dẫu sao đi nữa, chúng ta chưa
từng ném bom hạt nhân xuống dân thường, chưa khi nào đem hóa
chất rải xuống hàng ngàn cây số đất đai hoặc đem bom liệng xuống
một đất nước nhỏ bé với số lượng ngang bằng cả Thế Chiến Hai,
như trường hợp Việt Nam.
* * *
Dân gian mình thường nói "Cọp chết để da, người ta chết để
tiếng". Lúc sanh thời, "Ông Ba Mươi" nổi tiếng là hung ác nên
khi chết đi, người ta đem bộ da của "Ông" làm vật trang trí nhà
cửa, để trả đũa. Người đời tha hồ giẫm chưn lên mảnh da của con
thú, khi còn sống ai cũng phải nể.
Người ta thì khác, khi chết đi rồi thì tiếng tăm lưu lại muôn
đời. Tiếng lành cũng như tiếng xấu. Tiếng lành thì đồn xa, tiếng
dữ chỉ đồn ba ngày đường. Nên chi, con người ở đời cần phải quan
tâm đến dư luận của miệng lưỡi thế gian.
Điểm lại lịch
sử, người ta để ý thấy rằng, dưới chế độ độc tài đảng trị, kiểu
cộng sản, lãnh tụ nào cũng giết hại nhơn dân không ít. Liên Xô
có Lê Nin, Staline, Trung Quốc có Mao Trạch Đông, Việt Nam có Hồ
Chí Minh, đó là chỉ kể đại khái một số người. Họ tàn nhẫn vô
nhơn đạo vì trước khi lên nắm quyền, họ phải tranh đấu sống mái
để nhô đầu lên. Quen thói sắt máu, khi nắm được quyền hành rồi,
họ sát phạt người đối lập – cũng như những kẻ "gọi là" đối lập -
không nương tay.
Trái lại, bên thế giới dân chủ, người lãnh tụ lên thế cầm quyền
thông qua bầu cử. Muốn đạt được ngôi vị đầu đàn trong số những
người ưu tú, một tổng thống, một thủ tướng phải xuất thân từ lá
phiếu. Sau đó, khi ở thế lãnh đạo rồi, còn có những cơ chế khác
và những luật lệ kềm hãm, chớ chẳng phải tự tung tự tác như bên
chế độ độc tài đảng trị.
- Hết -
Cố Nhân |