Bắc kinh, một thuở hôn
mê - Lời kết
Từ Bắc Kinh đến Hà Nội
Ngay từ lúc còn là
một bào thai, Đại Vệ đã bị Nhà Nước đóng triện đỏ trên trán là con
của một "tên hữu khuynh", nghĩa là không cùng phe cánh với chế độ,
thậm chí còn là một đối tượng đáng bị trừng trị. Nên chi mẹ của Đại
Vệ, khi đi sanh phải mặt cái áo có kẻ hàng chữ vạch mặt chỉ tên rõ
ràng là "vợ của tên hữu khuynh". Do đó, nhà bảo sanh quốc doanh, dẫu
có tinh thần "lương y như từ mẫu" cũng phải đối xử với bà theo giai
cấp. Nên chi mẹ con Đại Vệ được cho nằm hành lang.
Đại Vệ là nhơn vật then chốt trong quyển truyện "Nhục Thổ" (Đất Thịt
Người, tựa tiếng Anh là Beijing Coma) của Mã Kiến, một trong những
nhà văn bất đồng tư tưởng có tiếng của Trung Quốc hiện nay. Một số
sách của Mã Kiến đã bị Trung Quốc cấm cửa và ông phải đi lưu vong.
Sở dĩ tựa sách như vậy là vì trong thời gian hôn mê, liệt chiếu liệt
giường, Đại Vệ được kể như là nằm trong ngôi mộ bằng thịt của chính
mình.
Ba của Đại Vệ là một nhạc sĩ vỹ cầm tốt nghiệp ở Huê Kỳ. Khi Mao
Trạch Đông cướp được chánh quyền, với bầu nhiệt huyết của một thanh
niên yêu nước, thương nòi, ông hăm hở trở về quê hương. Nhưng lòng
yêu nước đó không được chế độ tại chức chấp nhận nên ông đành "khăn
gói gió đưa", nổi trôi qua chuỗi dài của những trại lao cải. Sau hai
mươi mấy năm được Đảng cộng sản Tàu "dạy dỗ" để trở thành người
"lương thiện", chấp nhận "yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa". Nhờ
vậy, nhà nước mới "khoan hồng nhơn đạo" tha về đoàn tụ gia đình,
chẳng mấy năm sau, ông cũng được "tự do", từ giả cõi đời, đi theo
ông theo bà ông vải.
Mẹ Đại Vệ ở vậy nuôi hai con trai, quyết tâm ngoan ngoãn, răm rắp
tuân hành lịnh nhà nước để gọi là "đoái công chuộc tội", với hy vọng
trở thành đảng viên, một sớm, một hôm nào đó. Bà thường khuyên Đại
Vệ và Đại Nho đừng theo gương cha, hãy lo học hành và sinh sống đúng
theo phong cách của con người Trung Quốc đương thời. Vậy mà, cha mẹ
sanh con, thời thế sanh tánh, cho nên khi được tung vào đời, hai anh
em nhà họ Đại cũng sinh sống cho hợp với lẽ phải của thời đại. Cả
hai anh em đều theo nhịp đập con tim của tập thể sanh viên, mon men
học đòi tranh đấu. Tuổi trẻ bao giờ và nơi nào cũng vậy, cũng muốn
phấn đấu, vì cuộc sống mà không có ganh đua thì như vứt đi. Nhưng từ
cạnh tranh ở đời thường đến tranh đấu xã hội, chánh trị là cả một
trời cách biệt.
Đọc qua hồi ký cải tạo của cha mình, những sự kiện ghi lại trong đó,
ban đầu thấy khó tin, nhưng lần hồi suy đi nghĩ lại và đối chiếu với
thói đời, cùng với cung cách xử sự của nhà cầm quyền cộng sản, Đại
Vệ cho rằng ba nó đã viết ra những điều tai nghe mắt thấy. Bằng
chứng cụ thể, chỉ nội trong gia đình không thôi, cũng cho nó biết
quá nhiều điều thực tế.
Ông ngoại nó phải tự vận chết, ông nội nó bị chú nó chôn sống do đấu
tố trong thời "Cách Mạng Văn Hóa". Qua học tập cải tạo ba nó đã
chứng kiến cảnh tù cải tạo lấy nước đãi sạch phân người để lượm lặt
trong đó những chất còn ăn được, cho đỡ đói, biết được chuyện người
ăn thịt người vì "không ăn thịt kẻ thù của Đảng là thù địch với
Đảng" và chính ba nó sau khi ra trại rồi vẫn còn, theo thói quen
thời học tập cải tạo, giấu vỏ trái cây để dành ăn,... Bà mẹ của cô
bạn gái nó bị Cách Mạng Văn Hóa cạo đầu kiểu "âm dương", mái tóc đẹp
chỉ còn lại một nửa, bà xấu hổ quá, thà chết còn hơn.
Nỗi căm tức hun đúc trong lòng trai trẻ, ngày một ngày hai đã bùng
lên khi Đại Vệ rời đại học miền Nam lên đại học Bắc Kinh. Từ chuyện
tập hợp lại để truy điệu nhà cải cách Hồ Diệu Bang bị chế độ làm khó
dễ, sanh viên đã uất ức tiến tới những cuộc mít tinh, biểu tình tuần
hành rồi tuyệt thực tập thể để đòi nhơn quyền, tự do dân chủ và diệt
trừ viên chức quan liêu nhũng lạm. Cơn giận dữ của đất nước đã tập
trung tại địa điểm tiêu biểu là Quảng Trường Thiên An Môn, một vùng
đất thênh thang rộng, trước kia dành cho vua chúa, giờ thì dành cho
nhơn dân.
Sau mấy tuần lễ kiên
trì đấu tranh bất bạo động của sanh viên, nhà nước thấy cần phải dập
tắt lửa rơm trước khi đám cháy lan to, và ông Tổng Bí Thơ Triệu Tử
Dương, một con người thức thời chánh trị, đích thân đến hiện trường
để tâm sự cùng sanh viên. Nhưng bọn chóp bu lãnh đạo tham quyền cố
vị, sợ mất ghế lãnh đạo, điển hình là Đặng Tiểu Bình và Lý Bằng,
nhứt định cứng rắn với sanh viên. Do đó Triệu Tử Dương bị cho về
vườn, diện bích và ngồi chơi xơi nước lạnh. Sau đó là chuyện gì phải
đến đã đến, cuộc thảm sát tàn bạo dã man ở Thiên An Môn đã diễn ra,
với những tác hại lịch sử và có tiếng vang hoàn vũ lâu dài.
Trong trận đàn áp đó, Đại Vệ là một nạn nhơn tiêu biểu, đã được Mã
Kiến lấy làm trung tâm điểm để xoay quanh mà dựng chuyện "Nhục Thổ".
Qua nỗi khổ của Đại Vệ, một nỗi khổ bắt nguồn từ thời Cách Mạng Văn
Hóa đến mãi sau này, người đọc có thể kinh qua diễn biến xã hội,
chánh trị và tư tưởng của nước Trung Quốc vĩ đại. Một đất nước thinh
thang rộng có nhiều dấu ấn lịch sử - trong quốc nội cũng như trên
trường quốc tế - nhưng có biệt tài "dĩ bất biến, ứng vạn biến", dồn
nén chuyện lớn xuống chuyện nhỏ, rồi chuyện nhỏ thành chuyện bé tí
ti, và sau đó chuyện bé trở nên chẳng có gì. Một phương pháp dựng
trên nguyên tắc "để lâu, cứt trâu sẽ hóa bùn". Những chế độ công an
trị thường có một vũ khí thô bạo, dã man hơn khủng bố mấy vạn lần.
Đó là làm cho tập thể lú lẫn quên đi.
* * *
Trong khoảng thời gian mười năm hôn mê của Đại Vệ, trong khi mẹ nó
cứ xoay quanh có mỗi vấn đề chữa trị cho nó thì bên ngoài xã hội Tàu
đã bước đi một bước khá dài. Sau khi được Đặng Tiểu Bình chấp nhận
nguyên lý "mèo trắng mèo đen gì cũng tốt, miễn là bắt được chuột" để
động viên nhơn dân làm kinh tế, xã hội Tàu đã bước đi bằng những
bước "Thánh Giống". Nên chi, từ ngôn ngữ chí đến sinh hoạt thường
ngày cũng như tiến bộ khoa học kỷ thuật, mỗi mỗi đều có những sự đổi
thay rõ nét.
Trong khi Đại Vệ hoàn toàn nằm yên, mê man không cựa quậy, thì trái
lại ngoài đời, Xã Hội Tàu đã bao lần thay đổi xiêm y và lịch sử
Trung Quốc đã tăng tốc bằng những bước đi với đôi hia bảy dặm. Nào
là kinh tế tự do, nào là đầu tư bất động sản điên cuồng, nào là điện
toán và vi tính, nào là điện thoại di động và truyền hình tràn ngập,
rồi thì dân nghèo bị tống ra khỏi những thành phố để nhà nước lấy
đất chỉnh trang, xây dựng nhà lầu, cao ốc.
Lần lữa qua tháng rộng năm dài, người dân Tàu thấy có cơ hội ăn nên
làm ra, tình hình vật chất bản thân ngày một khắm khá hơn, tình cảnh
bản thân, gia đình và bầu bạn ngày nay bằng năm bằng mười thời ông
"Bốn Vĩ Đại" Mao Trạch Đông. Thời kỳ "xoá đói giảm nghèo" nay đã
tăng lên một cấp là "bỏ xe đạp tậu xe gắn máy" và cứ tiếp tục thừa
thắng xông lên. Nhứt định là trong cái đà phồn vinh cất cánh để vút
cao như phản lực đó, phải có sự khuyến khích của chế độ. Nếu không
thì dễ gì dân chúng làm được. Lối khích động đó đương nhiên là phải
có âm mưu ý đồ, theo châm ngôn "nhơn dân cứ giàu có, Đảng ta cứ mạnh
lên".
* * *
Cái gương sáng giá
của đàn anh Bắc Kinh sờ sờ trước mắt, đàn em Hà Nội, trông thấy thèm
nhỏ dãi, dại gì mà không theo? Thế nhưng nhãn hiệu "mèo trắng mèo
đen" đã được cầu chứng tại tòa nên Hà Nội bèn chế ra thương hiệu
khác, "xã hội chủ nghĩa theo cơ chế thị trường".
Quả vậy, ngày nay, dạo chơi trên đường phố Hà Nội, Đà Nẵng và nhứt
là Sài Gòn, người quan sát chịu khó suy nghĩ, sẽ thấy ra một chân lý
của tập thể lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Cảnh phồn vinh rần rộ, ngập
tràn khói máy nổ của một xã hội đầy ứ xe gắn máy, mô tô, xe hơi cho
thấy rằng nhà nước độc đảng cộng sản đã đem sung túc kinh tế đánh
tráo với quyền lực chánh trị. Quả vậy, thế hệ thanh niên hậu chiến
của Việt Nam đang cố gắng phấn đấu để tậu được một chiếc xe gắn máy
cáu cạnh, tân thời, rồi lần lần tiến lên xe hơi, chẳng cần quan tâm
đến nhơn quyền hay tự do dân chủ gì hết.
Ở Việt Nam, cũng như ở Trung Quốc - hai đảng cộng sản anh em thù
nghịch, chẳng yêu thương gì nhau - người ta đang theo đuổi một chế
độ kinh tế tương tự, thoát thai từ cái gọi là "Chủ nghĩa Lê Nin theo
cơ chế thị trường". Hai mươi năm sau "Mùa Xuân Bắc Kinh", kết thúc
bằng cuộc thảm sát đẫm máu tại Quảng Trường Thiên An Môn, sau khi
bức tường Bá Linh sụp đổ và nhứt là sau khi đã "đánh cho Mỹ cút,
ngụy nhào" hồi 1975, tập đoàn lãnh đạo Hà Nội không còn sợ cách mạng
vùng lên nữa, nhưng đang lo cái mà họ cho là "diễn biến hòa bình".
Hai mươi năm sau trận thảm sát Thiên An Môn, hiểm họa vùng dậy nổi
lên đâu chẳng thấy và sanh viên từ Bắc Kinh đến Hà Nội đều ngoan
ngoãn. Trong tương lai trước mắt giới trẻ mãi mê săn đuổi vinh hoa
phú quý thay vì đòi hỏi tự do dân chủ. Rất có thể họ muốn có thêm tự
do, nhưng không phải đến độ cần trực diện với chế độ, như thế hệ
Thiên An Môn xưa kia. Thế hệ hậu chiến "tiến nhanh, tiến mạnh" đến
cá nhơn chủ nghĩa nhiều hơn.
Trong khi giới trẻ Trung Quốc cho rằng nghĩa vụ hàng đầu của nước
Tàu ngày nay là phát triển thì tâm trạng của Việt Nam bây giờ là leo
thang từ xe gắn máy lên ô tô. Thế hệ Việt Nam trong thời kỳ sắp tới
đây bị ám ảnh bởi giàu sang phú quý hơn là đẩy đất nước lên nền dân
chủ đa nguyên.
Cũng như bên Tàu, tâm trạng thực tiễn đó xuất phát từ nỗi niềm ngao
ngán chiến tranh mà ra. Cả hai nước anh em đó – tuy là hai quốc gia
áp dụng chánh sách kinh tế như nhau nhưng cứ nhìn nhau như hai con
chó đá - đều trải qua hậu bán thế kỷ XX với một thời nội chiến, một
cuộc huynh đệ tương tàn, đã gây ra không biết bao nhiêu là mất mát.
Vì vậy cho nên tình hình ổn định được coi trọng, nhứt là nó nâng cao
nhanh chóng mức sống của quần chúng nhơn dân.
Y như rằng, những kiến trúc sư của nền kinh tế "xã hội chủ nghĩa
theo cơ chế thị trường", đã tìm ra được một chủ nghĩa tư bản có tăng
trưởng nhanh và nhiều cho những quốc gia độc đảng Châu Á, cũng đã
thấy trước. Cơn ác mộng trước mắt không phải là những cuộc cách mạng
vùng lên đẫm máu như thời buổi đã qua mà sẽ là một thứ tự do dân chủ
từng bước, từng bước, thận trọng tiến tới để gặm nhấm chế độ đương
quyền.
Nhưng sự chuyển hướng này đâu phải đơn giản, mà còn có nhiều điều
cần quan tâm hơn nữa, nên "diễn biến hòa bình" kia trở thành một
bóng ma ám ảnh các bộ chánh trị Châu Á phải năm canh thao thức.
Thành thử ra tuy là diễn biến hòa bình nhưng nó lại là bước một bước
hai, làm cho tập đoàn lãnh đạo Đảng và Nhà Nước phải âu lo đến nhức
đầu.
Khoa học kỹ thuật đã lần hồi cởi trói con người sống dưới chế độ
toàn trị. Thời đại đen tối của tâm hồn, dưới chủ nghĩa Staline, Mao
Trạch Đông, hoặc Hồ Chí Minh đã hằn sâu trong lịch sử, qua dáng dấp
của những xã hội bị kẽm gai rào kín. Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam
chẳng nước nào được tự do. Đồng thời cũng không nước nào triệt để
thiếu vắng tự do đến đổi dân chúng phải ao ước được tự do.
Người ta cho quần chúng nhơn dân há mồm chực đớp cái bánh vẽ dân chủ
tự do, một cái bánh cứ chạy thụt lùi, trong khi thiên hạ chạy tới
muốn hụt hơi. Thì "Bác ta" đã chẳng nói "Không có gì quý hơn độc lập
tự do" đó sao? Bằng chứng là sanh viên bây giờ đâu thèm biểu tình
đứng, biểu tình ngồi nữa, mà họ chỉ cần ngồi nhà mượn kỹ thuật điện
toán để trao dổi Blog hay Twitter. Bọn đầu sỏ Hà Nội, cũng bắt chước
Bắc Kinh, đưa ra miếng mồi tự do làm giàu nhấp nhử quần chúng nhơn
dân, để cho họ quên đi những quyền lợi chánh trị khác.
Đương nhiên là nhà cầm quyền Trung Quốc khóa một vài địa chỉ Web mà
họ cho là thù địch. Chế độ Internet tự do bị hạn chế. Ở Việt Nam,
thường thường có tinh thần cởi mở hơn người anh cả phương Bắc,
Internet được tự do tương đối khá hơn. Ở Trung Quốc cũng như ở Việt
Nam, chuyện giao dịch và sinh hoạt trực tuyến trên mạng được coi như
là cái xú-báp an toàn của những quốc gia độc đảng, nơi mà chủ nghĩa
cộng sản chẳng khác nào như một thương hiệu của quyền hành bị độc
chiếm.
Ngày một, ngày hai,
khi mà giai cấp trung lưu của Trung Quốc và Việt Nam càng khó tánh
đối với hàng tiêu dùng hằng ngày thì họ cũng bắt đầu đòi hỏi nhiều
hơn về chánh trị. Như vậy là khoảng chừng một phần tư thế kỷ nữa,
hai nước cộng sản anh em này sẽ phải cởi mở về mặt dân chủ tự do qua
đà "diễn biến hòa bình".
Tuy nhiên, trong tiến trình dân chủ hóa dự kiến đó còn có nhiều yếu
tố bất ngờ và bấp bênh, dẫu cho phần lớn dân chúng sinh sống hai
hoặc ba lần thoải mái hơn, cách đây nửa thế kỷ. Mười năm sau này đã
cho thấy có nhiều hứa hẹn trong chiều hướng lạc quan đó. Sau chánh
sách cởi mở kinh tế bắt đầu từ khúc ngoặt của những năm 1980-1990,
tỷ lệ tăng trưởng ở Việt Nam đã đạt được 8%. Mức sống đã tăng gấp
đôi. Ngày nay ở Việt Nam hầu như mỗi người dân có được một điện
thoại cầm tay. Đầu tư ngoại quốc cũng kéo vào khá nhiều, kể cả của
Việt kiều hải ngoại – khúc ruột từ ngàn dặm - được chánh phủ khuyến
khích đem tiền bạc về đầu tư. Công trường mở ra khắp nơi để đổi mới
hạ từng cơ sở, lôi cuốn du khách ngoại quốc cũng như để xây dựng ở
các thành phố lớn những trung tâm thương mại.
Chạy theo vết xe của Đảng Cộng Sản đàn anh phương Bắc, cộng sản Việt
Nam độc quyền, cũng canh chừng không để cho cởi mở kinh tế lôi cuốn
theo xáo trộn chánh trị. Trong lãnh vực này, Hà Nội cứ úp úp mở mở,
khi vầy, lúc khác, lúc nới lỏng, khi siết lại. Internet là phương
tiện thông tin cho phép đón gió mát muôn phương vào. Mà cũng là cái
xú páp an toàn vì hơi nóng dễ làm nổ bong bóng hơn.
Như vậy thì phải chăng là Việt Nam đang trên đường dân chủ hóa, nhờ
tăng trưởng kinh tế và nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật? Đâu mà quá đơn
giản như vậy! Với cộng sản không có chuyện thẳng như ruột ngựa mà
cái gì cũng quanh co, rắc rối. Từ khi Gorbatchev tung ra chánh sách
Perestroika, sau vụ Thiên An Môn và với sự đổ nát của bức tường Bá
Linh thì bức màn sắt không còn linh nghiệm nữa, tập đoàn chóp bu ở
Hà Nội, cũng như của Trung Nam Hải, đâm ra sợ cảnh rào đổ bìm leo và
giậu nát chó ỉa nên âm thầm thỏa hiệp với dân chúng. Họ như khuyến
khích nhơn dân cứ làm giàu, như là một cách xóa đói giảm nghèo, miễn
là đừng đụng chạm tới chánh trị. Bức màn tre bắt đầu lung lay, rào
thưa, giậu đổ.
Thế nhưng, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu mới đây và những hậu
quả mà những nước có kinh tế tăng trưởng nhờ xuất cảng sang thế giới
Tây Phương phải hứng chịu, có nguy cơ phá hỏng thỏa hiệp nói trên. Ở
Việt Nam, chánh phủ bị kẹt cứng giữa một bên là đẩy mạnh hoạt động
kinh tế vì yêu cầu quốc nội và bên kia là hãm bớt lạm phát. Những
người ăn lương tháng càng ngày càng khó mua được chiếc xe gắn máy,
một dấu hiệu dễ thấy của sự phồn vinh. Tiền mua một chiếc xe gắn máy
bây giờ cũng xấp xỉ từ sáu tháng đến một năm tiền lương. Nói làm gì
tới chuyện sắm ô tô, được coi như là bước tiến kế tiếp.
Các cuộc đình công xảy ra ở nhiều xí nghiệp thuộc đầu tư nước ngoài.
Không phải nhằm vào nhà nước, nhưng chánh quyền cũng thấy lo âu vì
biết đâu sẽ lãnh đủ khó khăn, dưới dạng thiệt hại bàng hệ. Dẫu sau
hiện tượng đó cũng cho thấy tình hình có khó khăn. Giai cấp trung
lưu mới nổi lên không dám yêu sách về chánh trị vì sợ mất đặc quyền
đặc lợi vừa mới được hưởng. Trái lại, nếu thời kỳ tăng trưởng mạnh
chấm dứt thì chế độ phải tìm ra phương thức khác để động viên nhơn
dân.
Biết đâu rồi đây, bí nước cùn đường, Đảng ta lại trở về phương pháp
cổ điển, siết chặt và mạnh tay theo lối đảng độc tôn. Đề cao cảnh
giác tốt hơn là tự tin. Nhưng, coi chừng, một khi quả bóng đã được
căng phồng mà bị bóp mạnh quá thì chuyện nổ tung là lẽ đương nhiên.
Cho nên cái khôn khéo, đúng hơn là cái láu tôm láu cá, của những chế
độ toàn trị là tìm cách khỏa lấp, che đậy, giấu kín như "mèo giấu
cứt" những hành động xấu xa. Không phải chỉ ém nhẹm khi vừa mới xảy
ra mà còn không muốn ai nhắc nhở đến mãi mãi về sau.
Như vết bẩn của triều đại ông "Hoàng Đỏ Staline", một đốm đen nhơ
nhớp trong lịch sử Liên Xô, đã được thiên hạ lờ đi. Vụ thảm sát
Thiên An Môn, hai mươi năm qua rồi mà Trung Nam Hải vẫn còn tìm mọi
cách cho nhơn dân Tàu và quần chúng thế giới coi như không có. Còn ở
Việt Nam ta thì thảm cảnh "cải cách ruộng đất" hay tai biến "nhân
văn giai phẩm", nay chỉ là huyền thoại để quên đi!
Hãy quên đi tất cả, cứ miệt mài chạy theo nhu cầu sinh sống hiện tại
để cho bọn đầu sỏ rộng đường thao túng chánh trị, ăn trên ngồi trước
và vơ vét mà vỗ béo tập đoàn. Trong một xã hội toàn trị, nếu con
người muốn tồn tại thì phải để cho tinh thần và tâm trí như ngây,
như dại, như đã chết đi. Quyển chuyện "Nhục Thổ" của Mã Kiến nói đến
nỗi xót xa khi người ta cố tình lờ đi chuyện kinh thiên động địa
trong quá khứ, để thừa cơ hội tiến hành một âm mưu khác thâm độc
hơn. Chẳng khác nào lợi dụng chứng Alzheimer của một người cao tuổi
để chiếm đoạt tài sản của đương sự.
Phan Quân
|